Theo Đông y, bệnh gan nhiễm mỡ thường gặp ở các trường hợp như tích tụ (đàm tích), hiếp thống (đau hông sườn), hoàng đản (viêm gan vàng da), can ngạnh hóa (xơ gan)… Tùy theo một số triệu chứng đi kèm với GNM mà người ta phân ra nhiều thể khác nhau như: Thể can khí uất, thể khí trệ huyết ứ, thể đàm thấp, thể tỳ khí suy, thể can thận âm hư, thể can đởm thấp nhiệt, thể đàm ứ (do nghiện rượu).
Mặc dù bị gan nhiễm mỡ nhưng những triệu chứng đi kèm có khác nhau, nên các món ăn thích hợp với mỗi trường hợp cũng có khác nhau.
CÁC MÓN ĂN DÙNG TRONG CHỮA TRỊ GAN NHIỄM MỠ THEO ĐÔNG Y
1. Thể can khí uất: Người bệnh thấy tức ngực, trướng bụng, đau tức vùng hạ sườn phải, ăn chậm tiêu, ợ hơi, người bực dọc, phiền muộn, dễ cáu gắt, giận dữ. Ở phụ nữ, thường có thống kinh (đau bụng kinh), bế kinh, kinh nguyệt không đều.
- Nước củ cải, quất
+ Nguyên liệu: Củ cải trắng 100g, quất 5 trái, mật ong 20g.
+ Cách làm: Củ cải trắng rửa sạch, xắt nhỏ, ép lấy nước. Quất rửa sạch, bỏ hạt, giã nát. Trộn đều nước củ cải và quất, thêm mật ong, hòa với 300ml nước sôi. Chia 2 lần uống trước bữa ăn. - Trà trần bì, thảo quyết minh
+ Nguyên liệu: Trần bì 12g, thảo quyết minh (quyết minh tử, hạt muồng ngủ) 20g.
+ Cách làm: Trần bì rửa sạch, phơi sấy khô, tán nhỏ. Thảo quyết minh (quyết minh tử, hạt muồng ngủ) rửa sạch, phơi sấy khô, sao vàng. Hai thứ nấu với 500ml nước, sắc còn 300ml, chia 2 lần uống trong ngày.
2. Thể khí trệ huyết ứ: Đau tức hạ sườn phải, gan sưng to có thể sờ thấy được, lưỡi đỏ tía, mạch căng như dây đàn (mạch huyền).
- Trà tam thất
+ Nguyên liệu: Tam thất 3g, trà xanh 3g.
+ Cách làm: Tam thất rửa sạch, phơi sấy khô, tán vụn cùng với trà xanh. Hai thứ cho vào ấm sành, hãm với 200ml nước sôi, đậy kín 10-15 phút. Có thể ngâm 3-4 lần cho ra hết thuốc. Dùng uống thay trà trong ngày. Sau khi uống nước có thể ăn luôn cả xác thuốc tam thất. - Trà nghệ, trần bì
+ Nguyên liệu: Nghệ vàng 10g, trần bì 10g, trà xanh 3g.
+ Cách làm: Nghệ vàng và trần bì rửa sạch, phơi sấy khô, tán nhỏ cùng với trà xanh 3g. Chia làm 2 phần, mỗi lần dùng 1 phần, cho vào ấm sành, hãm với 200ml nước sôi, đậy kín 10-15 phút. Có thể ngâm 3-4 lần cho ra hết thuốc. Dùng uống thay trà trong ngày.
3. Thể đàm thấp: Thường gặp ở người béo phì, bụng to, tay chân nặng nề, yếu mỏi không có sức, hay có đàm nhớt, lưỡi nhạt, rêu lưỡi trắng dầy.
- Trà sơn tra, lá sen
+ Nguyên liệu: Sơn tra 15g, lá sen 15g.
+ Cách làm: Sơn tra rửa sạch, xắt mỏng. Lá sen rửa sạch, phơi sấy khô, bóp vụn. Nấu hai thứ chung với 600ml nước, sắc còn 300ml, chia 2 lần uống trong ngày. - Sơn tra nấu mạch nha
+ Nguyên liệu: Sơn tra 20g, mạch nha 20g.
+ Cách làm: Hai vị trên nấu với 500ml nước, sắc còn 300ml, chia uống ngày 2 lần.
4. Thể tỳ khí suy: Người bệnh suy nhược cơ thể, người mệt mỏi, không có sức, hơi thở ngắn, tiếng nói nhỏ, ăn uống kém, bụng đầy, đại tiện phân lỏng, lưỡi hồng nhạt.
- Cháo bắp, mộc nhĩ
+ Nguyên liệu: Bắp 100g, nấm tai mèo 10g, gia vị lượng vừa phải.
+ Cách làm: Rửa sạch mộc nhĩ, ngâm cho mềm rối cắt nhỏ. Nấu bắp cho chín nhừ rồi bỏ mộc nhĩ vào nấu thành cháo, nêm nếm vừa ăn. Dùng trong bữa ăn hàng ngày. - Cháo sơn tra, bột bắp
+ Nguyên liệu: Sơn tra 15g, bột bắp 100g.
+ Cách làm: Sơn tra rửa sạch xắt mỏng, bột bắp trộn đều với nước nóng thành hồ. Nấu sơn tra với 1 lít nước, đun sôi mạnh rồi nhỏ lửa, khoảng 20 phút. Cho hồ bột bắp vào nồi thuốc, vừa đổ vừa quậy đều cho tan bột. Có thể thay thế sơn tra bằng hoài sơn 20g. Dùng ăn điểm tâm vào buổi sáng với ít đường hoặc muối.
5. Thể can thận âm hư: Người bệnh đau tức vùng hạ sườn phải, chóng mặt, ù tai, đau lưng mỏi gối, lòng bàn tay, bàn chân và ngực đều nóng, người gầy, da khô, khát nước, tiểu tiện vàng, khó ngủ, lưỡi đỏ, rêu vàng mỏng.
- Cháo hà thủ ô, đại táo:
+ Nguyên liệu: Hà thủ ô (đỏ) 30g, đại táo (táo đỏ càng tốt) 4-6 trái, gạo tẻ 100g, đường phèn hoặc mật ong 20g.
+ Cách làm: Hà thủ ô rửa sạch, nấu với 1 lít nước, sắc còn 500ml; đại táo rửa sạch, ngâm mềm, bỏ hạt. Dùng nước sắc hà thủ ô, thêm nước vửa đủ để nầu với gạo tẻ + đại táo thành cháo nhừ. Cho đường phèn hoặc mật ong vào khuấy đều. Chia 2 lần ăn vào lúc đói bụng.